CUỘC THI STEINWAY VÀ BỆ PHÓNG CHO CHRISTOPH ESCHENBACH

Cuộc thi Steinway không những mở ra cơ hội trình diễn tại các buổi hòa nhạc thực thụ cho các tài năng trẻ dưới 17 tuổi,
đây còn là bệ phóng cho những nghệ sĩ tầm cỡ thế giới.


Những nghệ sĩ trẻ trưởng thành từ cuộc thi Steinway có thể kể đến như Martin Helmchen (quán quân và đoạt nhiều giải thưởng khác từ 1989 đến 1997), Yu Kosuge (quán quân 1995), Alice Sara Ott (quán quân 1999), và không thể không nhắc đến Christoph Eschenbach (quán quân 1951, 1952) – một trong những nghệ sĩ piano
và chỉ huy dàn nhạc xuất sắc nhất nửa cuối thế kỷ XX.


VƯỢT QUA NGHỊCH CẢNH ĐỂ KHẲNG ĐỊNH BẢN THÂN


Christoph Eschenbach (tên thật Ringmann) là một nghệ sĩ piano và nhạc trưởng người Đức. Ông sinh năm 1940 ở Breslau, Đức – nay là thành phố Warsaw của Ba Lan. Ông là đứa trẻ mồ côi trong suốt Thế chiến II: Mẹ của ông mất sau khi sinh ông, còn bố của ông hi sinh trong chiến tranh. May mắn thay cho cậu bé,
sau khi chiến tranh kết thúc, em họ của mẹ ông, bà Wallydore Eschenbach, đã tìm được ông và nhận nuôi ông từ trại tị nạn (1946). Chính vì biến cố này, ông đã quyết định lấy họ Eschenbach – danh xưng mà về sau nổi tiếng trong giới piano và chỉ huy dàn nhạc.


Lớn lên trong sự bảo bọc của mẹ nuôi, cậu bé Eschenbach có cơ hội tiếp xúc với âm nhạc từ sớm, bởi bà Wallydore Eschenbach là một ca sĩ và nghệ sĩ piano, trong khi chồng bà là một nghệ sĩ violin nghiệp dư. Những ảnh hưởng âm nhạc đầu tiên đến với cậu bé là Edwin Fischer và Wilhelm Furtwängler.

 

Christoph Eschenbach bắt đầu học piano từ năm 8 tuổi. Ông bắt đầu sự nghiệp độc tấu piano bằng cách tham gia nhiều cuộc thi piano. Năm ông lên mười một và mười hai tuổi, Eschenbach hai lần giành giải nhất tại Hamburg Steinway Piano Competition – tiền thân của International Steinway Festival ngày nay. Năm 1955, ông theo học tại Cologne Musikhochschule cùng với Hans-Otto Schmidt-Neuhaus và sau đó đến Hamburg, nơi ông học piano với Eliza Hansen và chỉ huy dàn nhạc với Wilhelm Brückner-Rüggeberg. Vào năm mười bảy tuổi, Eschenbach đã giành được một giải thưởng đặc biệt tại Munich International competition; sau đó là giải nhất của German Schools of Music Competition.


TỪ NGHỆ SĨ TRÌNH DIỄN PIANO ĐẾN CHỈ HUY DÀN NHẠC


Năm 1962, Eschenbach tiếp tục giành được giải thưởng Munich; tuy nhiên, mãi đến khi ông giành được giải nhất tại Clara Haskil Competition vào năm 1965,
sự nghiệp của ông mới bắt đầu tạo được dấu ấn. Sự nổi tiếng mới này đã dẫn ông đến các buổi hòa nhạc và recital trên toàn thế giới với các chỉ huy dàn nhạc hàng đầu như George Szell (người mà ông đã theo học từ năm 1967 đến 1969) và Herbert von Karajan.

 

Mặc dù Eschenbach đã xuất hiện tại Hội trường Wigmore vào năm 1961 với tư cách người đệm đàn cho nghệ sĩ violin Charles Joseph, nhưng lần đầu tiên ra mắt chính thức của ông là tại London vào năm 1966. Ông đã trình diễn Piano Concerto cung Fa trưởng K.459 của Mozart cùng Dàn nhạc Giao hưởng London.


‘Một nghệ sĩ piano hai mươi sáu tuổi lựa chọn Royal Festival Hall ở London là nơi ra mắt công chúng lần đầu tiên, nếu không là một nghệ sĩ cực kỳ xuất chúng thì cũng là kẻ gàn dở điên rồ. Nghệ sĩ piano người Đức, Christoph Eschenbach, là người ở vế đầu tiên
.’


Trong những năm 1960 và 1970, Eschenbach chơi song tấu piano với Justus Franz và là người đệm đàn cho các ca sĩ như Dietrich Fischer-Dieskau. Eschenbach đã bắt đầu buổi trình diễn đầu tiên trên tư cách nhạc trưởng vào năm 1972, với Bản giao hưởng số 3 của Bruckner. Năm 1979, ông được bổ nhiệm làm tổng giám đốc âm nhạc của bang Rheinland-Pfalz Philharmonic (đến năm 1981). Ông là nhạc trưởng khách mời thường trực, sau đó là nhạc trưởng của Dàn nhạc Zürich Tonhalle (1971-1985).


Năm 1988, ông bắt đầu quá trình hợp tác nhiều thành tựu nhất cho đến nay với tư cách là giám đốc âm nhạc của Dàn nhạc Giao hưởng Houston. Mặc dù dàn nhạc của ông được xem như là một trong những dàn nhạc giao hưởng xuất sắc nhất của nước Mỹ, Eschenbach không ngừng cải thiện tiêu chuẩn, nâng cao danh tiếng quốc tế, và mở rộng khả năng trình diễn của dàn nhạc. Ông cùng Dàn nhạc Giao hưởng Houston đã tiến hành thu âm trên các hãng Koch International, Virgin, RCA Red Seal, Telarc, và Carlton. Trong số này có những bản thu âm được đánh giá cao của Brahms, Tchaikovsky và tất cả các bản concerto nổi tiếng của Mozart.

 

Từ năm 1991 đến 1998, ông là đồng đạo diễn của Liên hoan Âm nhạc Thái Bình Dương, cùng với Michael Tilson Thomas. Trong mùa 1998-1999, ông trở thành giám đốc nghệ thuật của Liên hoan Schleswig-Holstein. Năm 2003, ông trở thành giám đốc âm nhạc của Dàn nhạc Philadelphia, nơi ông tiếp tục là khách mời danh dự từ năm 2007-2010. Eschenbach đã trải qua mùa 2010-2011 với tư cách là giám đốc âm nhạc của Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia. Các đĩa thu âm mà ông đã thực hiện bao gồm Elgar & Schnittke: Viola Concertos (2009), The Best of Lang Lang (2010) và Remembering JFK – Hòa nhạc kỷ niệm 50 năm (2011).


TRỞ THÀNH NGHỆ SĨ STEINWAY


Các tiết mục trình diễn của Eschenbach trải dài từ thời kỳ Baroque cho đến đầu thế kỷ XXI, phản ánh mối quan tâm của ông từ nhạc cổ điển cho đến nhạc đương đại. Đáng chú ý, các phần trình diễn của ông có số lượng lớn các tác phẩm của các nhà soạn nhạc thế kỷ 20, như Bartók, Henze, Rihm, Reimann, Blacher. Tuy nhiên, ông đặc biệt nổi tiếng với các buổi biểu diễn và thu âm của Mozart, Haydn, Beethoven và Schubert.

 


Eschenbach thường xuyên xuất hiện nổi bật với tư cách nhạc trưởng khách mời tại các dàn nhạc và nhà hát opera nổi tiếng nhất thế giới, cũng như tại các lễ hội âm nhạc uy tín. Trong suốt sự nghiệp của ông, Eschenbach đã tiến hành thu âm cả trên tư cách nhạc trưởng và nghệ sĩ piano, gần đây ông đã hợp tác giọng nam trung nổi tiếng Matthias Goerne. Ông đã nhận được vô số giải thưởng và danh hiệu cao quý, trong đó có giải thưởng âm nhạc Ernst von Siemens 2015 – giải thưởng vinh danh các cá nhân có những cống hiến trọn đời cho âm nhạc. Đáng chú ý, Eschenbach còn là một nghệ sĩ Steinway – một sự khẳng định của thương hiệu piano danh tiếng cho những nghệ sĩ piano xuất sắc và nhiều ảnh hưởng nhất.


NẤC THANG ĐẦU TIÊN MANG TÊN STEINWAY


Con đường đi đến một ngôi sao tầm cỡ là một hành trình dài, trải qua nhiều khó khăn trắc trở. Mặc dù giải thưởng từ Clara Haskil Competition đã mang tên tuổi Eschenbach đến các nhà hát lớn, nhưng Steinway mới chính là nấc thang đầu tiên giới thiệu ông với công chúng. Đây có thể xem là cú khích lệ lớn cho Eschenbach, người đã trải qua những năm tháng đầu đời nhiều bất hạnh và tài năng piano chỉ mới chớm nở.


Kể từ lần đầu tiên tổ chức tại Hamburg vào năm 1936 cho đến nay, cuộc thi piano Steinway luôn hướng tới một giá trị chung:
nâng đỡ những nghệ sĩ trẻ trong giai đoạn đầu của sự nghiệp.

 


Steinway Youth Piano Competition Vietnam 2020 đã mở đăng ký và chào đón tất cả các thí sinh!


Đăng ký TẠI ĐÂY.

 

Nguồn tham khảo:

1. Riverside Music (2012). Christoph Eschenbach.

2. Music Trade (2011). 1st Steinway Competition in Japan.

3. Christoph Eschenbach (2019). Christoph Eschenbach Photos.

4. The Kennedy Center (2016) Christoph Eschenbach.

5. Konzerthaus Berlin (2019). Christoph Eschenbach: Principal Conductor.

6. Gordon Skene (2018). Christoph Eschenbach And Paul Schenly With The L.A. Philharmonic.

7. Patti Adams (2019). Christoph Eschenbach: Discover Ideas About Thelonious Monk.

8. Steinway & Sons (2015). Steinway Artits: Christoph Eschenbach.

9. Marilyn Sirzyk Gur-Esh (2017). Piano Lessons By Marilyn Sirzyk Gur-Esh.

10. The Historic Images Outlet (2009). 1971 Press Photo Christoph Eschenbach: German pianist conductor.

11. Houston Public Area (2017). Betsy Cook Weber On Her Love Of Bruckner And Eschenbach.

12. Alan Artner (2018). Pianist David Fray Rises Above The CSO’s Dose Of More Of The Same.

13. Mark Swed (2009). Review: Christoph Eschenbach Conducts The Los Angeles Philharmonic.

14. Bruce Duffie (1990). Pianist / Conductor Christoph Eschenbach: A Conversation With Bruce Duffie.

15. Codalario (2015). Christoph Eschenbach dirige ‘la consagración de la primavera’de stravinsky en el auditorio nacional al frente de la one.